CHÀO MỪNG BẠN ĐÃ ĐẾN TRANG CỦA CHÚNG TÔI

Chúng tôi luôn mong đợi sự chung tay góp sức của cộng đồng để làm bớt đi nỗi bất hạnh của người nghèo và người tàn tật - CHUNG MỘT TẤM LÒNG

Thứ Bảy, 3 tháng 4, 2010

CỬA SỔ TÂM HỒN















ĐÒAN TỪ THỆN CHUNG MỘT TẤM LÒNG CHUNGMOTTAMLONG
Phi lộ : ĐÒAN TỪ THIỆN CHUNG MỘT TẤM LÒNG ra đời do tâm nguyện của những người thày thuốc và những tất cả những người cùng chí hướng làm từ thiện muốn đem tình yêu thương và công sức của mình chia sẻ với người nghèo, những bệnh nhân, người tàng tật cần sự giúp đỡ. Đòan luôn mở rộng cửa đón nhận mọi người tham gia với lời mời gọi : " DÙ BẠN LÀ AI, DÙ BẠN Ở ĐÂU, DÙ BẠN ĐANG LÀM GÌ ? VẨN CÓ THỂ LÀM TỪ THIỆN "

TẬP VIẾT WEB VÀ TẠO BLOG TRÊN INTERNET
+TẬP VIẾT WEB VÀ TẠO BLOG TRÊN INTERNET

LỜI NÓI ÐẦU

Chào các bạn ! Nhu cầu giao tiếp ngày nay có rất nhiều phương tiện trợ giúp , nhưng một trang WEB KINH TẾ cho một công ty , một trang WEB CÁ NHÂN (BLOG) cho một người vẫn là chính đáng . Rất nhiều người bỏ ra thời gian ra học về cách tạo ra một trang WEB . Tuy về mặt lý thuyết phải nắm được một số cái gọi là " Kiến thức CNTT". Thực ra với nhu cầu bình dân ai cũng có thể tạo ra một trang WEB của mình . Ở đây tôi sẽ giới thiệu với các bạn những cách đơn gỉan nhất :

1/ HƯỚNG DẪN LÀM WEB ĐƠN GIẢN :Tài liệu này giúp cho các bạn bước đầu làm quen với WWW Clic chuột vô đây =>

http://www.geocities.jp/thcsbadinh/LamWeb/Huongdan.html

hoặc vô đây

http://forum.cuasotinhoc.vn/index.php?showtopic=90767

http://www.ut-hcmc.edu.vn/sj/course/WritingHTML.VN/start.htm

2/ CÁCH TẠO WEB BLOG ( TRANG CÁ NHÂN MIỄN PHÍ )

Có rất nhiều trang WEB dung lượng SERVER rất lớn cho phép mọi người tạo ra một trang WEB cá nhân của mình hòan tòan miễn phí gọi là WEBLOG . Thông thường WEBLOG nối ra thành một chuỗi MẠNG XÃ HỘI không mang tính thương mại . Tuy nhiên nhiều trang WEB Thương mại cũng cho phép tạo ra một trang BLOG cá nhân trong đó họăc một Diễn đàn ( FORUM )và các phần tử khác nhau (CHỦ ĐỀ ).

Trước khi viết một BLOG cho mình mọi người cũng nên biết trách nhiệm PHÁP LÝ của mình để tránh các rắc rối không mong đợi . Nếu chỉ dùng chế độ CÁ NHÂN (private ) hoặc lựa chọn lọc người được xem (protected) thì không có vấn đề gì - Trang WEBLOG lúc này là một kho chứa an tòan tất cả những gì bạn để vào đó. Nếu chọn chế độ CÔNG CỘNG (public) NÓ SẼ ĐƯỢC COI LÀ MỘT TỜ BÁO MẠNG do bạn phát hành . Thiết nghĩ chúng ta nên lưu ý điều này .

Thứ tự tạo một trang BLOG(Create a Blog) :

1-Tạo một tài khỏan ( Account ) và một hộp thư điện tử ( EMAIL )

2- Tạo Tài khỏan trên WEB muốn vào đó viết BLOG bằng việc khai báo theo yêu cầu của nó .

3- Kích họat tài khỏan ( Thông thường Trang WEB sẽ gửi EMAIL để kích họat )

4- Đăng nhập BẰNG TÀI KHỎAN CỦA BẠN

5- THỎAI MÁI Viết WEBLOG CỦA BẠN THEO Ý THÍCH

3/ CÁC TRANG WEB CHO PHẾP TẠO BLOG TÔI ĐÃ DÙNG THỬ

- WORDpress.com link có dạng http://Tên bạn .WORDpress.com ví dụ : http://vietnamquehuongtoi.wordpress.com/

-myspace.com link có dạng http://myspace.com/Tên bạn ví dụ : http://www.myspace.com/namha_hongha

-blogspot.com LINKCÓ DẠNG http;//TÊN BẠN .blogspot.com Ví dụ http://dttcmtl.blogspot.com/
12:23 AM1 viewadd eprops1 CommentemaileditMonday, 29 March 2010

GÓC THƯ GĨAN, LƯỢM LẶT GẦN XA
Tây ca vọng cổ








4 clip xúc động nhất trên Internet về tình cha con
Người con với sự nông nổi thường không hiểu hết tình yêu vô điều kiện của cha dành cho mình. Đây trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều đoạn phim ngắn xúc động và được chia sẻ nhiều trên Internet.
>6 clip rung động hàng triệu con tim trên mạng =>> http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/Giai-tri/2009/12/3BA171E4/
Cha, con và chú chim sẻ
Người cha già hỏi đi hỏi lại chú chim trong vườn là gì khiến đứa con bực mình, đánh vần từng chữ "chim sẻ". Người cha buồn bã, đưa cho con cuốn nhật ký về những ngày con là một đứa trẻ, người con đã lặp lại câu hỏi tới 21 lần nhưng ông vẫn hạnh phúc, ôm con trong lòng và kiên nhẫn trả lời 21 lần. Xem Video ->>http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/Giai-tri/2010/03/3BA19BE8/page_2.asp
Le Coeur est un Métronome

Clip dài 4 phút (Nhịp điệu trái tim) của nhà làm phim người Pháp Jean-Charles Mbotti-Malolo kể về xung đột giữa cha và con do con cái khi trưởng thành thường thấy gò bó và hay phản kháng trước những khuôn phép của cha mẹ. Xem video=>> http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/Giai-tri/2010/03/3BA19BE8/page_3.asp
Father and Daughter

của tác giả người Hà Lan Michaël Dudok De Wit đoạt giải phim ngắn xuất sắc tại Oscar 2000. Đây có lẽ là video về cha con được chia sẻ nhiều nhất trên Internet, khẳng định tình cảm vẹn nguyên của con gái với cha. Father and Daughter (Cha và con gái) là một phim hoạt hình ngắn của đạo diễn người Hà Lan Michaël Dudok De Wit thực hiện năm 2000. Với độ dài 8 phút 30 giây, bộ phim là câu chuyện không lời về tình cha con của một cô gái với người cha đi xa lâu ngày. Bộ phim đã giành Giải Oscar cho phim hoạt hình ngắn năm 2000 cùng rất nhiều giải thưởng khác.

Cốt truyện

Phim nói về một cô bé phải từ biệt người cha lên thuyền ra khơi từ khi cô còn rất nhỏ. Ngày ngày cô bé vẫn đạp xe tới nơi cha cô rời bến để chờ người cha trở về. Nhưng cha của cô gái không bao giờ quay trở lại. Một ngày, cô gái, lúc này đã là một bà lão, tới nơi đợi cha. Vùng nước nay đã khô cạn, chỉ còn là hoang mạc cát, bà lão cứ bước đi và tìm được chiếc thuyền của cha mình, nay đã không còn dấu vết nào của người cha. Bà lão nằm lại trong lòng thuyền và dần hóa thành cô bé ngày nào trong tiếng nhạc của bản Valurile Dunării (Sóng sông Danube).
Bộ phim được coi là chứa đựng ẩn dụ. Hình ảnh người cha lên thuyền đi xa có thể coi là cái chết của ông. Hình ảnh người con gái ngóng đợi cha mình có thể coi là sự tưởng nhớ về ông trong suốt cuộc đời của cô. Khi cô gái đã trở thành bà lão và đi xuống hồ, đó là lúc bà qua đời và đoàn tụ với người chả của mình, lại trở thành cô con gái bé nhỏ của ông.
(Theo Wiki) Xem video =>> http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/Giai-tri/2010/03/3BA19BE8/page_4.asp
"I can only imagine"

là Video câu chuyện có thật về người cha (Dick Hoyt) đặt đứa con tật nguyền (Rick Hoyt) lên thuyền, xe lăn... để tham gia nhiều cuộc thi. Tính đến tháng 9/2009, cả hai đã góp mặt trong 1.009 sự kiện thể thao. Khi được hỏi anh mong mỏi điều gì nhất, Rick nói: "Tôi muốn cha tôi ngồi trong xe đẩy để tôi có thể đưa ông ấy đi một lần". Xem video =>> http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/Giai-tri/2010/03/3BA19BE8/page_5.asp

Nguồn :
http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/Giai-tri/2010/03/3BA19BE8/
http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/Giai-tri/2009/12/3BA171E4/page_2.asp

<>

Mọi sự giáo dục đều nhắm tới mục đích làm thay đổi hành vi

Nói về sự giáo dục Hồ Chí Minh từng viết :

" Ngủ thì ai cũng như lương thiện

Đến khi tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền

Hiền dữ đâu phải là tính sẵn

Phần nhiều do giáo dục mà nên "

<>


TRIẾT LÝ LÀM TỪ THIỆN
CA DAO TỰ NGỮ VIỆT NAM KHUYÊN CON NGƯỜI TA NÊN LÀM VIỆC THIỆN
“Dẫu xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người”
QUAN NIỆM CỦA CÁC TÔN GIÁO VỀ LÀM TỪ THIỆN
+Phật giáo :
Một người làm lành ngàn người được nhờ
Được lưu truyền trong chốn thiền môn và nghe có vẻ hơi lý tưởng nhưng lại hết sức thực tế,
câu nói: “Nhất nhân tác phước thiên nhân hưởng” (Một người làm lành ngàn người được nhờ).
Người xưa đã thực nghiệm và phát biểu thế, tưởng đã sâu sắc vô cùng. Không phải tự dưng
người ta nói như thế.
Cũng không phải nhân danh tôn giáo nào người ta khuyên như thế. Đó là một thực nghiệm,
lâu ngày trở thành một lẽ sống, rất minh triết, rất hiểu cuộc đời và thương cuộc đời.
Câu nói đơn giản chỉ để cho cuộc sống được tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn.
Người nào hiểu cuộc đời và thương cuộc đời thì đều nỗ lực làm phước và khuyến
khích người khác làm phước.
Nhưng thế nào là làm phước và làm phước có tác dụng gì? Tưởng cũng không cần phải đào
sâu ý nghĩa của từ này. Ai cũng hiểu rằng “phước” hay còn gọi là “phúc” trong chữ Hán
có nghĩa là may mắn, tốt lành; đối lại với “hoạ” là bất hạnh, tai hoạ.
Do đó “làm phước” tức là làm điều tốt lành, làm điều khiến đưa đến may mắn, tốt lành, không
đưa đến bất hạnh, tai hoạ. Như vậy “làm phước” căn bản là làm điều đúng, điều tốt, tránh làm điều sai, điều xấu. Theo nghĩa này, người Việt ta thường dùng từ “phước đức” hay
“phúc đức” để ca ngợi nếp sống ăn hiền ở lành hay những việc làm mà họ tin sẽ đem lại điều may mắn tốt lành cho mình và cho người. Người xưa chiêm nghiệm phúc hoạ ở đời rất tinh tường sâu sắc nên những điều họ nói ra đôi khi nghe có vẻ giản dị nhưng rất thực.
Chúng ta thấy rằng một người sống làm phước tức là giúp cho nhiều người được may mắn an lạc,
tựa như một cây trổ hoa thì cả rừng cây được thơm lây.
(Nhất nhân tác phước thiên nhân hưởng. Độc thọ khai hoa vạn thọ hương).
Chúng ta hiểu rằng cuộc sống là một tổng hoà các mối quan hệ giữa con người và con người
cũng như giữa con người và môi trường sống mà trong đó bất cứ hành vi nào của cá nhân, dù tốt
hay xấu, đều có tác động và ảnh hưởng nhất định đến người khác.
Thí dụ, nếu mỗi người chúng ta chú ý tập một thói quen không xả rác trên đường phố thôi
thì cả thành phố không chỉ sạch đẹp mà môi trường cũng bớt đi phần ô nhiễm. Sức khoẻ của con người và cộng đồng nhờ đó cũng được cải thiện đáng kể.
Thử lấy một ví dụ: Nếu một người đi đường theo đúng luật giao thông, nghĩa là người ấy . Chỉ thuần tuý làm một việc đúng gọi là tuân thủ quy định về an toàn giao thông, thì sẽ không trực tiếp hay gián tiếp gây tai nạn cho mình hay cho người khác, cũng không trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra cảnh ùn tắc giao thông mà đôi khi chỉ vì lý do người ấy không theo đúng quy định nào đó về giao thông khiến ảnh hưởng đến cả một đoàn người tham gia giao thông ở phía sau. Một nhận thức khá đơn giản như vậy về cuộc sống là đủ cho ta hiểu phần nào câu nói của người xưa: “Một người làm phước ngàn người được nhờ”. Cuộc sống gắn kết và môi trường nhạy cảm của xã hội hiện đại càng khiến cho ta dễ thấy hơn tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn lao của mối quan hệ giữa con người và con người trong các sinh hoạt cộng đồng. Một ví dụ khác dễ hiểu hơn: Một người không vì tham lam tiền của mà làm hàng giả hay buôn bán hàng giả: bia giả, rượu giả, thức ăn dễ ngộ độc hay dễ sinh bệnh, thuốc trị bệnh giả…, nghĩa là người ấy tuyệt nhiên không chấp nhận làm điều sai, điều xấu gây thương tổn bất hạnh cho nhiều người khác. Hành động có ý thức như vậy cũng được gọi là “làm phước” và hẳn nhiên sẽ không gây khổ đau trước mắt và lâu dài cho nhiều người khác hay cho cộng đồng, cả về sức khoẻ lẫn tâm lý. Thông thường, chúng ta hiểu khái niệm “làm phước” như là một ước lệ mang tính đạo đức tôn giáo được đặc cách cho nhịp đập của con tim mẫn cảm nào đó mà không phải là một lẽ sống cần theo đuổi bởi tất cả mọi người. Đúng là trong các tôn giáo người ta có khuyên và được khuyên như thế, bởi đó là nền tảng và cũng là biểu hiện của sự hiểu biết và tình thương yêu. Nhưng nếu ta hiểu “làm phước” cơ bản là một nếp sống làm lành lánh ác theo cách trên thì nó không chỉ dành cho những người có đức tin tôn giáo, mà còn dành cho tất cả những ai biết sống vì mình và vì người. Bố thí, chia sẻ hay giúp đỡ cho người khác thứ này thứ khác mà họ cần đến thì được gọi là “làm phước”. Nhưng căn bản và trước hết, “làm phước” chính là nếp sống chân chính lương thiện, biết làm điều đúng, điều tốt, tránh làm điều sai, điều xấu.
Xem ra thì “làm phước” không nói nhiều gì đến tín ngưỡng hay đức tin tôn giáo mà nó là một lẽ sống của tất cả mọi người, một lẽ sống sáng suốt có từ tâm mà càng nỗ lực theo đuổi thì con người càng được may mắn hạnh phúc, cùng lúc giúp cho nhiều người khác được may mắn hạnh phúc. Nó đơn giản là lòng tốt, biết thương mình và thương người. Xuất phát từ cái nhìn duyên sinh, đạo Phật đề nghị một lẽ sống rất minh triết: “Hộ trì mình là hộ trì người. Hộ trì người là hộ trì mình”. Vế thứ nhất có nghĩa là giữ mình khỏi làm các điều sai trái, cũng đồng nghĩa tránh cho người khác khỏi các hậu quả không tốt do việc làm sai trái của mình. Vế thứ hai là sống với tâm vô hại, có lòng từ và có lòng ai mẫn đối với người khác, do đó cũng có nghĩa là tạo điều kiện an ổn cho chính mình.
Cuộc sống là một tổng thể các mối quan hệ rất tế nhị giữa con người và con người cũng như giữa cá nhân và môi trường tự nhiên, xã hội mà bất luận một ý tưởng hay một hành vi nào của cá nhân cũng đều có tác dụng ảnh hưởng đến sinh thể của tổng thể ấy. Nhận thức cho thật đúng như vậy thì “làm phước” hay làm điều đúng, điều tốt, tránh làm điều sai, điều xấu không hoàn toàn là một ước lệ đạo đức, mà chính là một lẽ sống khôn ngoan đáng theo đuổi và cần được theo đuổi bởi tất cả mọi người.
Mỗi con người đều có sẵn lòng nhân mong muốn điều tốt lành cho mình và cho người. Do đó, nếu mỗi cá nhân chú ý phát huy tâm thái này ở trong chính mình bằng cách nghĩ đến khổ đau của người khác mà nỗ lực làm các điều đúng, điều tốt, tránh các điều sai, điều ác thì cuộc sống nói chung sẽ được may mắn và hạnh phúc rất lớn. Người nào lưu tâm “làm phước” như vậy tức là đã hiểu và thương cuộc đời nhiều lắm. Tự thân sống làm lành lánh ác rồi mà còn nỗ lực giúp đỡ cho người khác các điều kiện để họ được hạnh phúc an lạc thì càng hiểu và thương cuộc đời nhiều hơn.
Người Việt Nam ta có câu nói khuyên mọi người “làm phước” rất ý nhị: “Dẫu xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người”. Làm phúc chỉ để cứu cho một người thôi đã quan trọng lớn lao đến thế. Trong cục diện một xã hội và thế giới rất nhạy cảm và dễ thương tổn như xã hội và thế giới hiện tại của chúng ta thì chỉ một hành vi “bỏ quên phước đức” nhỏ thôi của người nào đó đôi khi gieo tai hoạ đau khổ cho hàng ngàn, thậm chí hàng vạn người. Ngược lại, “làm phước” thì cứu được hàng vạn sinh linh. “Nhất nhân tác phước thiên nhân hưởng” xem ra rất đáng suy nghĩ vậy.
Tâm Chơn
http://chuahoangphap.com.vn/news.php?id=515





<>

NHÀ THƠ HỮU LOAN - MỘT NHÂN CÁCH SỐNG

Trích lưu :

Bác bôi tôi không bằng tôi bôi bác! (Tú Sót – Nghệ An)

Mày ăn dân hết nước, dân ăn mày ! (Hữu Loan – Thanh Hóa)

Nhà thơ Hữu Loan qua đời, thọ 95 tuổi

Vào 19 giờ ngày 18/3 (tức ngày 3/2 năm Canh Dần), thi sĩ Hữu Loan đã qua đời tại nhà riêng ở thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, hưởng thọ 95 tuổi.
Thi sĩ Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại thôn Văn Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Ông đỗ tú tài năm 1943, từng đi dạy học, tham gia Mặt trận bình dân, tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Năm 1943, ông về quê gây dựng phong trào Việt Minh, và khi cuộc Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Trước năm 1945, ông đã từng là cộng tác viên trên các tập san Văn Học, xuất bản tại Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Uỷ viên Văn hóa trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham gia quân đội Nhân dân Việt Nam, phục vụ trong Đại đoàn 304. Sau năm 1954, ông có thời gian làm việc tại Báo Văn nghệ. Sau đó, ông về ở tại quê nhà đến ngày nay.
Gia tài thơ của thi sĩ Hữu Loan không nhiều nhưng những bài thơ của ông đã lưu những dấu ấn khó phai trong thi đàn Việt Nam như: Màu tím hoa sim, Đèo Cả, Hoa lúa... Hơn 1 năm qua, thi sĩ Hữu Loan bị chứng thấp khớp nặng, toàn thân đau nhức. Mặc dù đã được gia đình và thầy thuốc chăm sóc chu đáo, nhưng do tuổi cao, sức yếu, nhà thơ đã vĩnh biệt chúng ta./.

Nhà thơ Hữu Loan, qua đời ngày 18 tháng 3, 2010, khi gần đến 95 tuổi ở Thanh Hóa. Ông là tác giả bài thơ bất hủ Màu Tím Hoa Sim. (Hình: T.Phan/Người Việt)
THANH HÓA (NV) - Nhà thơ Hữu Loan, tác giả của bài thơ nổi tiếng “Màu Tím Hoa Sim” vừa qua đời ở quê nhà khi gần tới tuổi 95.
Báo điện tử Sài Gòn Tiếp Thị Online cho hay nhà thơ qua đời khoảng 19 giờ tối ngày 18 tháng 3, 2010. Nhưng nhạc sĩ Tuấn Khanh đưa tin trên Blog của ông nói nhà thơ mất lúc 21 giờ.
SGTT nói rằng, “Sau khi con cháu đã đông đủ, gia đình làm lễ phát tang lúc 1g30 phút sáng ngày 19 tháng 3, 2010. Lễ động quan diễn ra vào 15g 30 phút chiều cùng ngày và đưa ông về nghĩa trang của xã Nga Lĩnh, nơi yên nghỉ cuối cùng của ông.”
Cuộc đời thanh niên của ông gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng sau đó, ông bỏ đảng CSVN về sống ẩn dật ở quê nhà mà qua một số cuộc phỏng vấn, ông tiết lộ từng bị viên chức CSVN tìm cách ám hại, đầu độc nhiều lần nhưng ông đều thoát được.
Từ làm ruộng, kéo xe cút kít, vác đá, mò cua bắt ốc để mưu sinh, suốt một chặng đường dài bề ngoài là âm thầm nhưng thật sự là cuộc đấu tranh, đấu trí không ngừng nghỉ giữa ông và chế độ độc tài đảng trị mà ông chạy trốn, diễn ra được ông kể lại sau này.

Nhà thơ Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 12 tháng 4, 1916 tại làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.

Nhà nghèo, thuở thiếu thời phần lớn tự học với sự chỉ bảo phần nào của người cha, dù vậy, Hữu Loan đã đi thi và đỗ bằng Tú Tài năm 22 tuổi, một bằng cấp rất cao trong xã hội Việt Nam thời thập niên trước và sau 1940.

Ðỗ tú tài, ông đi dạy học rồi “đi làm gia sư để kiếm gạo” như lời ông tự kể. Trước đó, ông đã tham gia Mặt Trận Bình Dân vào năm 1936 rồi khi cuộc kháng chiến chống Pháp phát động, ông là phó chủ tịch Ủy Ban Khởi Nghĩa ở huyện Nga Sơn. Trước năm 1945, ông đã từng cộng tác với một số tận san văn học ở Hà Nội.

Sau cuộc cách mạng Tháng Tám, ông được cử làm ủy viên Văn Hóa trong Ủy Ban Hành Chính Lâm Thời tỉnh Thanh Hóa. Rồi ông tham gia đội quân chống Pháp, phục vụ ở đại đoàn 304. Khi Hiệp Ðịnh Geneve ra đời, ông về Hà Nội, làm báo Văn Nghệ một thời gian. Khoảng thời gian 1956-1957, ông tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Một số bài viết và thơ của ông đả kích kịch liệt các tiêu cực phổ biến trong hàng ngũ cán bộ cộng sản đã dẫn đến tù tội cho ông khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị đàn áp.

Nhà thơ Hữu Loan không làm nhiều thơ nhưng hầu như các bài thơ ông viết ra đều được yêu thích. Ðặc biệt, bài thơ Mầu Tím Hoa Sim ông diễn tả tâm sự của một người chiến binh có vợ chết trẻ (16 tuổi) ở quê nhà chứ không phải người cầm súng ở chiến trường.

Năm 1949, ông chỉ được về phép mấy ngày, làm đám cưới rồi quay lại chiến trường, ba tháng sau, nghe tin vợ chết đuối.

Nhiều nhạc sĩ (Phạm Duy, Dzũng Chinh, Anh Bằng, Duy Khánh) phổ nhạc, có lẽ bài hát nổi tiếng nhất là bài “Áo Anh Sứt Chỉ Ðường Tà” mà nhạc sĩ Phạm Duy phổ theo bài Mầu Tím Hoa Sim.

Trong một lần tiếp khách, ông kể, “Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.”

Rồi ông kể tiếp, “Năm 1988, tôi ‘tái xuất giang hồ’ sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do Hội Văn Nghệ Lâm Ðồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí-xuất bản và đổi mới thực sự.”

Tuy nhiên, “Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia ‘lộc’ cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.”

Cả cỳuộc đời, không chỉ là một nhà thơ tác giả của những bài thơ bất hủ, ông còn được kính trọng là người luôn luôn giữ khí tiết của một kẻ sĩ “tiết tụỳc, tâm hư,” đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên hết.

Hồi ký của Hữu Loan
Phần 1: Mà chết người gái nhỏ hậu phương…
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ, bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi Tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi Tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và… tôi – Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh Tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, Tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu Quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.

Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi – mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: “Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt…

Có lần tôi kể chuyện “bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu”. Em không chịu, nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi…

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim không?
Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ… Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: – Ngọt quá!

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế!
 Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi… Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa…

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đến ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ…

Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp…

Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm “soạn kịch bản”.
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: “Yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, làm thơ hay… lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!

Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo Sư đoàn 304, làm Chủ bút tờ Chiến sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại… Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.

Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn… Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói “Khi tóc nàng đang xanh … [...] …Tôi về không gặp nàng…”.

Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và chuyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu tím hoa sim.

Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi mới viết nổi những câu:“Chiều hành quân, qua những đồi sim / Những đồi sim, những đồi hoa sim /
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết /
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt /
Và chiều hoang tím có chiều hoang biết /
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết…”

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi “hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạnh họe đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!

Đến vụ Nhân văn Giai phẩm

Đó là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân văn Giai phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng… Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông… Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?

Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi…

Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình [Ninh Bình?] quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!

Phần 2: Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ…
Vợ nhà thơ Hữu Loan – Bà Phạm Thị Nhu
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch Cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955.

Lúc đó tôi còn là Chính trị viên của Tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong tay gần năm trăm mẫu tư điền.

Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội Sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là Trưởng phòng tuyên huấn và Chính trị viên của Tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên Sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông .

Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.

Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.

Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no… Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai , 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!

Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.

Năm 1988, tôi “tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do Hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, Công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác , nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.

Hữu Loan
Màu Tím Hoa Sim
Hữu Loan
Nàng có ba người anh đi bộ đội

Những em nàng

Có em chưa biết nói

Khi tóc nàng đang xanh

Tôi người vệ quốc quân xa gia đình

Yêu nàng như yêu người người em gái.

Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới

Tôi mặc đồ quân nhân

đôi giày đinh bết bùn đất hành quân

Nàng cười xinh xinh

bên anh chồng độc đáo

Tôi ở đơn vị về cưới nhau xong là đi

Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến binh

mấy người đi trở lại

Lỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê..

Nhưng không chết người trai khói lữa

Mà chết người gái nhỏ hậu phương.

Tôi về không gặp nàng

Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối

Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi

Em ơi giây phúp cuối

Không được nghe nhau nói

Không được nhìn nhau một lần

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím

áo nàng màu tím hoa sim

Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ

Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa...

Một chiều rừng mưa

Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc

Biết tin em gái mất

trước tin em lấy chồng

Gío sớm thu về rờn rợn nước sông

Đứa em nhỏ lớn lên

ngỡ ngàng nhìn ảnh chị

Khi gío sớm thu vàng cỏ vàng chân mộ chí

Chiều hành quân qua những đồi sim

những đồi sim dài trong chiều không hết

Màu tím hoa sim

tím chiều hoang biện biệt

Nhìn áo rách vai tôi hát trong màu hoa

( áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sơm, mẹ già chưa khâu....)


<>

Tết Canh Dần 2010 lên các Chùa trên Yên Tử

Mỗi Slide dưới đây trình diễn gần 1000 hình được ghi suốt hành trình Tp HCM - Nam Định-Hà Nội - Hải Phòng- Đồ Sơn - Qủang Ninh Nam Hà muốn chia sẻ với mọi người

NGƯỢC ĐƯỜNG NAM BẮC



ĐƯỜNG LÊN YÊN TỬ
"Cả đời tích đức tu hành
Chưa lên Yên Tử chưa thành qủa tu "



HÀ NỘI TẾT CANH DẦN 2010


VIẾNG THÀNH CỔ LOA


http://img.vietgiaitri.com/style_images/shop_items/60.gif



CÁCH LIÊN HỆ TRỰC TIẾP VỚI ĐÒAN








Liên hệ với CHUNGMOTTAMLONG để tham gia công tác từ thiện bằng các đường :

1. Gửi thư cho chúng tôi qua EMail chungmottamlong_q6@yahoo.com hoặc chungmottamlongq6@Gmail.com

2. Gọi điện thọai tới số 0907038734 gặp Bs Nam Hà

3. Comment trực tiếp vào trang này (http://chungmottamlong.xanga.com/ ) hoặc các trang WEBBLOG của Đòan CHUNGMOTTAMLONG


http://chungmottamlong.blogtiengviet.net/ hungmottamlong.http://vn.myblog.yahoo.com/chungmottamlong_q6

4.Gửi thư qua Bưu điện ghi rõ :

Gửi : Đòan Từ Thiện Chung Một Tấm Lòng số 1039 A Hồng Bàng, P12,Q6, TP HCM

5. Add NIC chungmottamlong_q6 để CHAT với người phụ trách




Chúng tôi rất mong sự tham gia đóng góp của quý vị !


<>









CHA VÀ CON

Người con với sự nông nổi thường không hiểu hết tình yêu vô điều kiện của cha dành cho mình. Đây trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều đoạn phim ngắn xúc động và được chia sẻ nhiều trên Internet.>6 clip rung động hàng triệu con tim trên mạng =>> http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/Giai-tri/2009/12/3BA171E4/
Cha, con và chú chim sẻ
Người cha già hỏi đi hỏi lại chú chim trong vườn là gì khiến đứa con bực mình, đánh vần từng chữ "chim sẻ". Người cha buồn bã, đưa cho con cuốn nhật ký về những ngày con là một đứa trẻ, người con đã lặp lại câu hỏi tới 21 lần nhưng ông vẫn hạnh phúc, ôm con trong lòng và kiên nhẫn trả lời 21 lần. Xem Video ->>http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/Giai-tri/2010/03/3BA19BE8/page_2.asp

Le Coeur est un Métronome Clip dài 4 phút (Nhịp điệu trái tim) của nhà làm phim người Pháp Jean-Charles Mbotti-Malolo kể về xung đột giữa cha và con do con cái khi trưởng thành thường thấy gò bó và hay phản kháng trước những khuôn phép của cha mẹ. Xem video=>> http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/Giai-tri/2010/03/3BA19BE8/page_3.asp

Father and Daughter của tác giả người Hà Lan Michaël Dudok De Wit đoạt giải phim ngắn xuất sắc tại Oscar 2000. Đây có lẽ là video về cha con được chia sẻ nhiều nhất trên Internet, khẳng định tình cảm vẹn nguyên của con gái với cha. Father and Daughter (Cha và con gái) là một phim hoạt hình ngắn của đạo diễn người Hà Lan Michaël Dudok De Wit thực hiện năm 2000. Với độ dài 8 phút 30 giây, bộ phim là câu chuyện không lời về tình cha con của một cô gái với người cha đi xa lâu ngày. Bộ phim đã giành Giải Oscar cho phim hoạt hình ngắn năm 2000 cùng rất nhiều giải thưởng khác. Cốt truyện Phim nói về một cô bé phải từ biệt người cha lên thuyền ra khơi từ khi cô còn rất nhỏ. Ngày ngày cô bé vẫn đạp xe tới nơi cha cô rời bến để chờ người cha trở về. Nhưng cha của cô gái không bao giờ quay trở lại. Một ngày, cô gái, lúc này đã là một bà lão, tới nơi đợi cha. Vùng nước nay đã khô cạn, chỉ còn là hoang mạc cát, bà lão cứ bước đi và tìm được chiếc thuyền của cha mình, nay đã không còn dấu vết nào của người cha. Bà lão nằm lại trong lòng thuyền và dần hóa thành cô bé ngày nào trong tiếng nhạc của bản Valurile Dunării (Sóng sông Danube). Bộ phim được coi là chứa đựng ẩn dụ. Hình ảnh người cha lên thuyền đi xa có thể coi là cái chết của ông. Hình ảnh người con gái ngóng đợi cha mình có thể coi là sự tưởng nhớ về ông trong suốt cuộc đời của cô. Khi cô gái đã trở thành bà lão và đi xuống hồ, đó là lúc bà qua đời và đoàn tụ với người chả của mình, lại trở thành cô con gái bé nhỏ của ông. (Theo Wiki) Xem video =>> http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/Giai-tri/2010/03/3BA19BE8/page_4.asp

"I can only imagine" là Video câu chuyện có thật về người cha (Dick Hoyt) đặt đứa con tật nguyền (Rick Hoyt) lên thuyền, xe lăn... để tham gia nhiều cuộc thi. Tính đến tháng 9/2009, cả hai đã góp mặt trong 1.009 sự kiện thể thao. Khi được hỏi anh mong mỏi điều gì nhất, Rick nói: "Tôi muốn cha tôi ngồi trong xe đẩy để tôi có thể đưa ông ấy đi một lần". Xem video =>> http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/Giai-tri/2010/03/3BA19BE8/page_5.asp
Nguồn :
http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/Giai-tri/2010/03/3BA19BE8/
http://vnexpress.net/GL/Vi-tinh/Giai-tri/2009/12/3BA171E4/page_2.asp
Hành vi con người bắt đầu từ nhận thức . Mọi sự giáo dục đều nhắm tới mục đích làm thay đổi hành vi . Nói về sự giáo dục Hồ Chí Minh từng viết :
" Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Đến khi tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên "
<>